LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KHOA TÂM LÝ- GIÁO DỤC HỌC

SƠ LƯỢC LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KHOA

TÂM LÝ- GIÁO DỤC HỌC (1965-2014)

I. THỜI KỲ TIỀN THÂN CỦA KHOA TÂM LÝ- GIÁO DỤC HỌC

(Từ 1951- 1965)

         Tiền thân của Khoa, cũng như sự hình thành và phát triển của Khoa gắn liền với sự phát triển của ngành Sư phạm và Khoa học giáo dục. Chính chúng ta đã tạo nên nhu cầu và điều kiện dẫn đến việc thành lập Khoa Tâm lý- Giáo dục học.

          Quán triệt sâu sắc chiến lược vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến giáo dục, đặc biệt là ngành Sư phạm- cỗ máy cái phải đi trước một bước. Vì vậy, từ năm 1950 đã xây dựng Trường Trung cấp Sư phạm Liên khu IV, đặc biệt sau chiến thắng biên giới 1951, với sự giúp đỡ của Đảng cộng sản, Chính phủ và nhân dân Trung Quốc, chúng ta đã xây dựng Khu học xá Trung ương ở Nam Ninh, Trung Quốc. Ở đó, bên cạnh Trường Phổ thông còn có Trường sư phạm với các bậc học khác nhau. Một vấn đề đặt ra đối với Trường Sư phạm là phải có bộ môn Sư phạm. Trước yêu cầu đó, Ban giám đốc Khu xá Trung ương đã cử thầy Nguyễn Hữu Tảo, thầy Nguyễn Lân và cô Lê Thị Nhu, vốn là những thầy, cô giáo trước kia đã học ở Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương (thời thuộc Pháp), lại có bề dầy kinh nghiệm sư phạm, lập thành một nhóm nghiên cứu xây dựng nội dung và tiến hành giảng dạy Bộ môn sư phạm cho các khối Sư phạm của Khu học xá, sau đó bổ sung thầy Hà Thế Ngữ. Vào khoảng năm 1952, bằng kinh nghiệm tích lũy được trong quá trình giảng dạy và vốn hiểu biết khai thác từ cuốn sách “ Giáo dục học thực hành” pédagogie Vécue), cô Lê Thị Nhu đã biên soạn cuốn “Giáo dục học” đầu tiên được ấn hành ở Khu học xá Trung ương. Lúc đó, nội dung giảng dạy chủ yếu được tiếp cận với cuốn “Giáo dục học” của Cairốp (Nhà Giáo dục học của Liên xô cũ). Đây là một cuốn sách được xây dựng với tư cách là một chuyên ngành khoa học và đã được dịch sang tiếng Trung Quốc. Thầy Đặng Đức Siêu (vốn học Trung Văn, nay là Giáo sư Hán Nôm Khoa Ngữ Văn Trường Đại học sư phạm Hà Nội) được phân công dịch ra Tiếng Việt. Sau này, đội ngũ cán bộ được bổ sung thêm thầy Nguyễn Đức Minh và thầy Phạm Cốc.

        Hòa bình lập lại, cuối năm 1954, toàn bộ sinh viên khối Sư phạm cao cấp ở Khu học xá về Hà Nội để hòa nhập vào khối sinh viên Trường Đại học Hà Nội trong nội thành lúc bấy giờ. Vào khoảng năm 1956, một nhóm nghiên cứu Tâm lý học được hình thành trong Tổ Triết học thuộc Khoa Lịch sử gồm có: Thầy Cao Xuân Huy, cô Đỗ Thị Xuân và sau này bổ sung thêm thầy Phạm Hoàng Gia. Năm 1956, thầy Nguyễn Lân từ Khu học xá về nước, tiếp tục tham gia giảng dạy tại Trường Đại học Hà Nội và được Ban giám đốc cử phụ trách nhóm Giáo dục học với một thu ký và hai phiên dịch Trung văn là các ông Chu Quý, Thái Hoàng. Với tư cách là cán bộ giảng dạy, một mình thầy Nguyễn Lân đã tiến hành giảng dạy, cũng như tổ chức thực tập sư phạm cho sinh viên các Khoa lúc bấy giờ. Cũng vào thời gian đó, Bộ Giáo dục có quyết định chia Trường Đại học Hà Nội thành hai trường riêng là Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội do Giáo sư Ngụy Như Kon Tum làm Giám đốc và Trường Đại học Sư phạm Hà Nội do Giáo sư Phạm Huy Thông làm giám đốc.

          Ngày 17- 04-1958, theo quyết định của Giám đốc hai trường, sát nhập Tổ Tâm lý học thuộc Tổ Triết học và nhóm Giáo dục học thành Tổ Giáo dục- Tâm lý học (tên gọi lúc bấy giờ) và Thầy Nguyễn Lân được cử làm Chủ nhiệm Bộ môn. Theo văn bản, đây là mốc đầu tiên Tổ Tâm lý- Giáo dục học được hình thành.

          Năm học 1958- 1959, Trường Đại học sư phạm Hà Nội chuyển về Cầu Giấy trên cơ sở vật chất của Trường Trung cấp sư phạm Trung ương. Lúc đó thầy Nguyễn Hữu Tảo là Hiệu trưởng đã cùng với Tổ Tâm lý- Giáo dục học của Trường Trung cấp sư phạm Trung ương gồm các thầy Nguyễn Đức Minh, Phạm Cốc và Vũ Văn Thái sáp nhập với Tổ Giáo dục- Tâm lý học thành một tổ mới: Tổ Tâm lý- Giáo dục học do thầy Nguyễn Hữu Tảo làm tổ trưởng và thầy Nguyễn Lân làm tổ phó. Thầy Hà Thế Ngữ được cử đi Liên Xô làm Nghiên cứu sinh và cô Lê Thị Nhu chuyển công tác khác.

       Do yêu cầu bồi dưỡng cán bộ giảng dạy Tâm lý học và Giáo dục học, theo đề nghị của Bộ giáo dục nước ta, cuối năm 1959, Bộ Giáo dục Liên Xô đã cử hai chuyên gia là P.M Xamiucov- PGS.TS. về Giáo dục học và Praxetxki- PSG.TS về Tâm lý học sang giúp đỡ tổ bồi dưỡng cán bộ. Thời gian đó có thêm 3 phiên dịch tiếng Nga là ông Nguyễn Đức Uy, Lê Quang Tuyến, Nguyễn Minh Hòa và 2 phiên dịch tiếng Trung Quốc là ông Chu Quý, ông Tạ Quý Ngân.

         Để phát triển đội ngũ cán bộ giảng dạy Tâm lý học và Giáo dục học, tranh thủ sự giúp đỡ của các chuyên gia, từ cuối năm học 1958-1959, hàng năm nhà trường đã giữ lại số sinh viên tốt nghiệp (chủ yếu là cán bộ được cử đi học) bổ sung vào đội ngũ cán bộ của tổ. Năm học 1958-1959 bổ sung 6 cán bộ gồm: Nguyễn Duy Minh, Phạm Ngọc Đương (Khoa Lịch sử chuyển sang), Nguyễn Đức Ảnh (tức Nguyễn Quốc Bảo), Hồ Quảng Hành, Bùi Ngọc Hồ (Khoa Ngữ văn chuyển sang), Trịnh Nghĩa Uông (Khoa Địa Lý chuyển sang). Cùng dự lớp bồi dưỡng với các cán bộ này có thầy Lê Khánh Bằng (Giáo viên trường Sư phạm miền núi nhưng đến năm 1962 trường Sư phạm này giải thể, thầy Bằng chuyển về tổ Tâm lý- Giáo dục). Năm 1959- 1960, bổ sung 7 cán bộ, gồm: Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Bảo, Trịnh Tụ, Vũ Lân, Đặng Xuân Hoài, Trương Anh Tuấn, Nguyễn Văn Khánh. Năm học 1960- 1961 có thêm 7 cán bộ, gồm: Lê Văn Hồng, Võ Quang Phúc, Nguyễn Thị Thu Cúc, Hoàng Hữu Xứng, Bùi Đình Mỹ, Phùng Đức Hải và thầy Từ Đức Văn. Năm học 1961- 1962 có thêm 6 thành viên, gồm: Nguyễn Sinh Huy, Nguyễn Văn Hân, Triệu Tất Kính, Nguyễn Hữu Loan, Trần Trọng Thủy, Phạm Minh Hạc, trong số này có thầy Phạm Minh Hạc tốt nghiệp Đại học tại Liên Xô (cũ) chuyên ngành Tâm lý học. Đây là lần đầu tiên sự bổ sung lực lượng cán bộ cho bộ môn có một người được đào tạo thuộc chuyên ngành Tâm lý học. Năm 1963, thầy Hà Thế Ngữ sau khi bảo vệ thành công Luận án Phó Tiến sĩ Giáo dục học đã về tổ trong một thời gian ngắn.

        Trong thời gian này, tất cả mọi cán bộ giảng dạy lấy tự bồi dưỡng làm chính và tranh thủ sự giúp đỡ của chuyên gia hoặc sự giúp đỡ của tập thể. Ba hoạt động cơ bản của người cán bộ giảng dạy đồng thời được tiến hành: Giảng dạy, nghiên cứu khoa học và phổ biến khoa học.

        Lúc này, ngoài giảng dạy, các cán bộ của tổ đã bắt đầu tiến hành các thực nghiệm khoa học nghiêm túc và dài hơi, kết quả được hiện thực hóa bằng những tiểu luận khoa học và được bảo vệ trước Hội đồng khoa học.

         Thời kỳ này, công tác phổ biến khoa học rất được quan tâm do yêu cầu của thực tiễn cuộc sống và được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: từ nói chuyện với học sinh và giáo viên các trường phổ thông, các tầng lớp nhân dân trong các cộng đồng dân cư khác nhau (xí nghiệp, nông thôn, khối phố) cho đến các buổi thuyết trình những vấn đề lý luận và thực tiễn của Tâm lý học- Giáo dục học cho cán bộ giảng dạy các trường Đại học, cũng như các cơ quan giáo dục trong lực lượng vũ trang (quân đội và công an).

          Bên cạnh đó, tổ còn thực hiện chức năng tham mưu nghiệp vụ cho trường như xây dựng quy chế thực tập sư phạm, cử cán bộ tham gia các đoàn thực tập sư phạm, đóng góp ý kiến xây dựng nội dung và kế hoạch giáo dục nghiệp vụ cho sinh viên, xây dựng môi trường sư phạm chính trên mảnh đất Sư phạm. Những đóng góp trên được Ban giám hiệu nhà trường ghi nhận và đánh giá cao.

          Cũng ở thời kỳ này, toàn thể cán bộ trong tổ đã coi nhận thức thực tế phổ thông, trường sư phạm và thực tiễn xã hội như là nguồn bổ sung cho sức sống của tổ. Việc xuống các trường phổ thông đã trở thành chế độ công tác của cán bộ giảng dạy. Để gắn Trường Đại học sư phạm với trường phổ thông, theo đề nghị của tổ, Trường Đại học sư phạm đã ký kết với Sở giáo dục Hà Nội xây dựng Trường cấp III Yên Hòa thành trường thực hành và cử thầy Hoàng Hữu Xứng làm Hiệu phó của trường để dễ dàng tổ chức cho cán bộ và sinh viên của trường thực hiện các chương trình thực hành sư phạm và thâm nhập thực tế phổ thông.

          Nhằm đáp ứng nhu cầu cán bộ giảng dạy của các Trường Trung cấp sư phạm các tỉnh, cán bộ nghiên cứu của các Vụ, Viện của Bộ giáo dục, các Sở, các Ty giáo dục lúc bấy giờ, năm học 1958- 1959, Bộ giáo dục và Trường Đại học sư phạm Hà Nội đã giao cho Tổ tổ chức các lớp giáo dục mà học viên là các giáo viên lâu năm ở các cơ sở cử lên. Thời gian đào tạo cấp tốc 1 năm. Các lớp như vậy tổ chức hai khóa liền, sau đó mở một lớp như vậy với thời hạn 2 năm.

         Nhằm tạo nguồn bổ sung cho cán bộ giảng dạy của Tổ, theo đề nghị của Ban lãnh đạo tổ và được sự đồng ý của GS. Hiệu trưởng Phạm Huy Thông, từ năm học 1963- 1965 Tổ đã mở các lớp Tâm lý- Giáo dục học (lúc đó thường gọi là lớp chuyên nghiệp) mà người học là những sinh viên đã tốt nghiệp các Khoa không chuyên Tâm lý học- Giáo dục học (như Khoa Toán, Lý, Hóa, Văn, Sinh,…) với thời gian học tập là 2 năm. Điển hình như  lớp chuyên nghiệp khóa đầu lúc đó là các cán bộ: Phạm Tất Dong (nay là Giáo sư, Tiến sĩ, Nguyên phó Ban khoa giáo Trung ương), Lê Khanh (nay là Phó giáo sư, Tiến sĩ, từng là Chủ nhiệm Khoa Tâm lý học Trường ĐHKH Xã hội nhân văn, ĐH Quốc gia Hà Nội)… Mô hình đào tạo như vậy được tiếp tục khóa thứ hai. Ngày nay,sinh viên ở các lớp đó nhiều người đã trở thành những cán bộ giảng dạy, cán bộ nghiên cứu có trình độ cao. Nhiều người đã đạt tới trình độ Tiến sĩ, học hàm Giáo sư và Phó giáo sư… Tuy là một Bộ môn nhưng qua các sản phẩm đào tạo, thực chất Bộ môn đã thực hiện chức năng như một Khoa trong trường.

         Kết thúc khóa bồi dưỡng thứ nhất, một số học viên đã được giữ lại làm cán bộ giảng dạy: Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Nguyễn Thị Đoan, Lê Khanh, Phạm Ngọc Quỳnh. Cũng năm đó, một số học viên đã tốt nghiệp Khoa cơ bản của Trường được chuyển về Tổ vừa công tác, vừa tự bồi dưỡng dưới sự giúp đỡ của các tổ viên có kinh nghiệm như: Hồ Ngọc Đại, Nguyễn Đình Chỉnh, Võ Văn Tám, Lê Hai, Vũ Nguyên Hùng… Ngoài ra, năm 1963, thầy Lê Hai từ miền Trung được chuyển về Tổ công tác.

          Năm học 1963-1964,  theo yêu cầu của sự nghiệp cách mạng, một số thầy cô trong Tổ đi vào Miền Nam (đi B) công tác, đó là thầy Vũ Lân, Nguyễn Đức Ảnh, Hồ Quảng Hành, Nguyễn Văn Hân. Trong số các cán bộ đi B lúc đó, có thầy Vũ Lân đã hy sinh trên đường đi làm nhiệm vụ.

          Từ lúc manh nha (1951) đến thời kỳ định hình, thời kỳ tiền thân của Khoa Tâm lý- Giáo dục học cũng đã có nhiều công trình biên soạn và dịch thuật mà tác giả là cá nhân hay tập thể. Có thể điểm qua một số công trình sau đây:

          Thoạt đầu là cuốn Giáo dục học của Cairốp được Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản năm 1960 do thầy Chu Quý dịch và thầy Nguyễn Hữu Tảo hiệu đính, tiếp đó là cuốn Nguyên lí đạo đức cộng sản do thầy Nguyễn Hữu Tảo và thầy Chu Quý dịch từ bản dịch tiếng Trung Quốc do Nhà xuât bản Sự thật ấn hành. Đến năm 1962, hai tập Sơ thảo Giáo dục học do tập thể tổ Giáo dục học biên soạn, thầy Nguyễn Hưu Tảo chủ biên ra đời. Cũng nhưng năm 1960, 1961, cuốn Tâm lí học do Đức Minh, Phạm Cốc, Đỗ Thị Xuân biên soạn, có tham khảo từ bản dịch tiếng Trung Quốc cuốn Tâm lí học, tác giả là A. A. Xmiếcnốp, Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành đã phục vụ đông đảo cán bộ và sinh viên các trường Sư phạm. Ngoài các tài liệu dịch và những công trình tập thể, từ năm 1961 đến 1962, thầy Nguyễn Lân đã cho ra đời một số công trình như: Lịch sử giáo dục thế giới (NXB GD, Hà Nội, 1958), Người thầy giáo xã hội chủ nghĩa (NXB Sự thật, Hà Nội, 1960), Giảng dạy trên lớp (NXB GD, Hà Nội, 1961), Công tác chủ nhiệm lớp (NXB GD, Hà Nội, 1962).

       Bên cạnh đó, tập Đề cương bài giảng tâm lí học do tập thể cán bộ Tâm lí học biên soạn đã ấn hành vào những năm 1962, 1963 in bằng rônêô.

        Như vậy, chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn, từ năm học 1951-1952 đến năm học 1964-1965, tổ Tâm lí – Giáo dục Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã trưởng thành nhanh chóng cả về lực lượng cán bộ và trình độ chuyên môn. Từ chỗ chỉ có 03 thầy cô giáo khi mới thành lập, đến năm học 1965 đã có gần 30 thầy cô giáo. Tổ đã đảm nhiệm chức năng của một Khoa nghiệp vụ trong Trường Đại học Sư phạm: đào tạo cán bộ Tâm lí – Giáo dục học đáp ứng cho các trường Sư phạm khác và các cơ quan nghiên cứu của ngành; giảng dạy môn Tâm lí học, Giáo dục học và hướng dẫn thực hành nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên các khoa trong Trường; nghiên cứu khoa học và biên soạn giáo trình, tài liệu có liên quan đến khoa học Giáo dục Việt Nam.

      Quá trình phát triển và thành tựu thời kì tiền thân của Khoa như một viên than hồng làm rực cháy một bếp lò – Khoa Tâm lí – Giáo dục học của chúng ta ngày nay.

       Đúng như một nhà hiền triết đã nói: “ Cây cao bóng cả là do mầm non bé nhỏ tạo nên, lâu đài chín tầng là do từng viên gạch ghép lại, chuyến đi ngàn dặm là bước chân đầu tiên”. Người đặt viên gạch đầu tiên, bước chân đầu tiên là thầy Nguyễn Hữu Tảo- Người thầy mẫu mực và đáng kính trọng của mọi thế hệ thầy và trò Khoa Tâm lí – Giáo dục học.

 

II. KHOA TÂM LÍ – GIÁO DỤC HỌC TỪ KHI THÀNH LẬP 1965 ĐẾN NĂM 1975

 

        Năm 1965 là mốc son trên con đường phát triển của Khoa Tâm lí – Giáo dục học: năm được nhà Trường Quyết định thành lập Khoa Tâm lí – Giáo dục học trên cơ sở tổ Tâm lí – Giáo dục học đã có.

         Năm học đó Khoa Tâm lí – Giáo dục học có 30 cán bộ: Nguyễn Lân, Phạm Minh Hạc, Trương Anh Tuấn, Bùi Ngọc Hồ, Trịnh Tụ, Đặng Xuân Hoài, Nguyễn Văn Khánh, Lê Khánh Bằng, Nguyễn Sinh Huy, Vũ Văn Thái, Lê Văn Hồng, Nguyễn Ngọc Bảo, Nguyễn Thị Đoan, Trần Trọng Thủy, Võ Văn Tám, Triệu Tất Kính, Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Phạm Văn Quỳnh, Hoàng Hữu Xứng, Võ Quang Phúc, Vũ Nguyên Hùng, Bùi Đình Mĩ, Nguyễn Thị Thu Cúc, Hồ Ngọc Đại, Phạm Hoàng Gia, Nguyễn Đức Uy, Nguyễn Đình Chỉnh, Lê Khanh, Nguyễn Hữu Nghĩa, Tạ Quý Ngân (Trước đấy thầy Hà Thế Ngữ, sau khi bảo vệ luận án PTS tại Liên Xô có về Khoa công tác một thời gian ngắn, sau đó cùng một số thầy cô khác: Nguyễn Đức Minh, Đỗ Thị Xuân, Nguyễn Duy Minh chuyển ra Viện Khoa học Giáo dục.

         Năm học 1964-1965 thầy Nguyễn Hữu Tảo được nghỉ hưu, Trường cử thầy Nguyễn Lân làm Tổ trưởng Tâm lí – Giáo dục thay thầy Nguyễn Hữu Tảo). Thầy Nguyễn Lân được cử làm Chủ nhiệm Khoa và thầy Trương Anh Tuấn làm Bí thư Liên chi Đảng.

          Năm học đầu Khoa Tâm lí – Giáo dục học có 02 tổ chuyên môn: Tổ Tâm lí học do thầy Phạm Minh Hạc phụ trách và Tổ Giáo dục học do thầy Bùi Ngọc Hồ phụ trách.

          Năm học 1967-1968, theo Quyết định của Chính Phủ, Trường Đại học Sư phạm được tách ra thành ba trường: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I đào tạo giáo viên các Khoa học xã hội; trường Đại học Sư phạm Hà Nội II đào tạo giáo viên các Khoa học tự nhiên và Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ đào tạo giáo viên dạy tiếng nước ngoài. Theo yêu cầu đào tạo của các trường Sư phạm, cùng năm đó Khoa Tâm lí – Giáo dục học được tách ra thành 04 đơn vị: Khoa Tâm lí – Giáo dục học thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I do  thầy Nguyễn Lân làm Chủ nhiệm khoa; Tổ Tâm lí – Giáo dục học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I do thầy Nguyễn Sinh Huy làm tổ trưởng; Tổ Tâm lí – Giáo dục học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội II do thầy Bùi Ngọc Hồ làm tổ trưởng và tổ Tâm lí – Giáo dục học Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ do thầy Hoàng Hữu Xứng làm tổ trưởng.

        Ngày 15-11-1974, theo quyết định của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, Khoa Tâm lí – Giáo dục học và bộ môn Tâm lí – Giáo dục học của Trường được hợp nhất thành Khoa Tâm lí – Giáo dục học. Thầy Trương Anh Tuấn được cử làm trưởng ban phụ trách Khoa. Các thầy Nguyễn Văn Khánh và Nguyễn Sinh Huy được cử làm ủy viên.

          Mười năm 1965-1975 là thời kì cả nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mĩ, giải phóng Miền Nam, thống nhất Đất Nước. Suốt tám năm ròng (từ 1965-1973) cũng như mọi khoa khác trong Trường, thầy trò Khoa Tâm lí – Giáo dục học đã trải qua những chặng đường sơ tán về nhiều vùng nông thôn đầy gian khổ, thiếu thốn trăm bề về cuộc sống hàng ngày, về điều kiện giảng dạy và học tập. Song cũng chính thời gian ấy Khoa Tâm lí – Giáo dục học đã trưởng thành, vững bước đi lên, phấn đấu dạy tốt, học tốt, làm tốt công tác dân vận, trong tình yêu thương đùm bọc của bà con núi rừng Phổ Yên, Bắc Thái, Cát Dương, Hà Linh Phủ Cừ, Hải Hưng), Thượng Cát (Từ Liêm, Hà Nội), Phú Xuyên (Hà Tây cũ), Yên Mĩ (Hải Hưng)…

         Những năm tháng thầy trò bám dân ở nơi sơ tán, hình ảnh “ tất cả vì cán bộ và sinh viên thân yêu ” của thầy Chủ nhiệm khoa Nguyễn Lân, của đồng chí Bí thư liên chi ủy Đảng Trương Anh Tuấn, đồng chí Phó chủ nhiệm khoa Bùi Quang Nhương cũng như nhiều tấm gương của các đòng chí cán bộ còn in đậm trong tâm trí của từng cán bộ, sinh viên và bà con nơi sơ tán. Cũng chính trong từng tháng năm gian khổ ấy, Khoa đã tổ chức đào tạo 04 khóa (theo hệ 02 năm), bốn lớp cán bộ Đoàn khóa 01, khóa 02, khóa 03, khóa 04 với tổng số 102 đồng chí. Những cán bộ được đào tạo tại Khoa đã và đang giữ những vị trí cốt cán trong các cơ quan lãnh đạo, các cơ quan nghiên cứu và giảng dạy của Đoàn thanh niên. Trong số các học viên lớp cán bộ Đoàn do Khoa đào tạo, một số học viên đã được Khoa giữ lại làm cán bộ: Nguyễn Thanh Phương (1967), Nguyễn Thị Hoàng Anh (1967), Vũ Văn Cường (1970) và Lê Ngọc Lan (1971) Cũng trong những ngày gay go ác liệt của thời kì chống Mĩ, hai lớp chuyên nghiệp A (1966-1968) và chuyên nghiệp B (1966-1968) được đào tạo tại Khoa. Lớp chuyên nghiệp A bao gồm 52 đồng chí, trong đó có 50 sinh viên vừa tốt nghiệp các khoa cơ bản được giữ lại bồi dưỡng 01 năm chuyên tu Tâm lí – Giáo dục học, để bổ sung cho đội ngũ cán bộ giảng dạy của các Trường Đại học Sư phạm trong cả nước, và hai đồng chí cán bộ quân đội gửi học. Lớp chuyên nghiệp B gồm 20 cán bộ giáo viên cấp 02 đi học (theo hệ 02 năm chuyên tu Tâm lí – Giáo dục học). Số cán bộ giảng dạy được đào tạo từ 02 lớp chuyên nghiệp A và B là lực lượng bổ sung kịp thời cho đội ngũ giảng viên Tâm lí – Giáo dục học của ba trường Sư phạm nói trên và góp phần xây dựng tổ Tâm lí – Giáo dục học của hai Trường ĐHSP Vinh, ĐHSP Việt Bắc và Khoa Tâm lí – Giáo dục học Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh sau này. Cho đến nay, hầu hết các anh chị em lớp chuyên nghiệp A đã có học vị Tiến sĩ, một số là Giáo sư, Phó Giáo sư hiện nay đang là lực lượng cốt cán của các trường đại học và các cơ quan nghiên cứu. Kết thúc hai khóa đào tạo này Khoa Tâm lí – Giáo dục học, tổ Tâm lí – Giáo dục học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I và tổ Tâm lí – Giáo dục học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội II đã được bổ sung thêm nhiều cán bộ mới: Nguyễn Văn Thàng, Nguyễn Quang Uẩn, Đàm Hữu Thiếu, Lê Văn Huỳnh, Phan Diệu Trang, Nguyễn Văn Diện, Bùi Văn Huệ, Hà Trung Chính, Đào Danh Tình, Trần Quang Cấn, Nguyễn Hữu Long, Trần Thị Thu Dung, Triệu Xuân Quýnh, Nguyễn Văn Hách, Lê Văn Học, Ngô Hiệu, Phạm Ngọc Uyển, Nguyễn Ngọc Bích, Nguyễn Quang Dương, Hà Nhật Thăng…

       Trong những ngày gian khổ ấy, nhiều giáo trình, tài liệu về Tâm lí học, Giáo dục học được ra đời: các giáo trình Tâm lí học đại cương, Tâm lí học lứa tuổi và sư phạm, Giáo dục học đại cương, Lịch sử giáo dục học được tập thể cán bộ Khoa biên soạn vào nhưng năm 1970 cho đến nay vẫn là những tài liệu tham khảo có giá trị. Trong nhưng ngày thiếu thốn về mọi mặt, tập thể cán bộ Khoa vẫn triển khai các công trình nghiên cứu khảo sát đặc điểm tâm lí học sinh Việt Nam, những công trình nghiên cứu về lí luận dạy học, về nội dung và phương pháp giáo dục, về tổ chức lao động và hoạt động tập thể lớp, về công tác giáo viên chủ nhiệm vv…Các tập giáo trình “Đề cương bài giảng Tâm lí học đại cương”, “Đề cương bài giảng Tâm lí học lứa tuổi và sư phạm”, “Đề cương bài giảng Giáo dục học”…do tập thể cán bộ Khoa có sự tham gia của một số cán bộ giảng dạy Tâm lí – Giáo dục học Trường Đại học Sư phạm Vinh biên soạn dưới sự chỉ đạo của Hội đồng bộ môn Tâm lí – Giáo dục học ấn hành năm 1975, đến nay vẫn là những tài liệu khoa học có giá trị.

       Từ năm học 1967-1968 Khoa bắt đầu hệ đào tạo 03 năm với đối tượng cán bộ, giáo viên cấp 02 đi học.

          Trong thời gian từ 1967-1972 Khoa đã đào tạo 03 khóa sinh viên hệ chính quy (lúc đó gọi là hệ chuyên nghiệp). Sau mỗi khóa đào tạo, Khoa đều chọn và giữ lại một số học viên bổ sung cho đội ngũ cán bộ của Khoa. Khóa đầu (1967-1970) có các đồng chí: Vũ Thị Vang, Phạm Thị Nương, Đặng Trí Dũng, Lê Tiến Hùng, Đặng Thị Thịnh. Khóa thứ hai (1968-1971) có các đồng chí: Trần Thị Qua, Bùi Xuân Khoát, Nguyễn Văn Thạc. Khóa thứ ba (1969-1972) có các đồng chí: Hà Thị Đức, Vũ Lê Đắc. Ngoài ra, những năm này và vài năm sau Khoa được tăng cường thêm một số cán bộ học từ Liên Xô về: Lê Khánh Thọ, Đặng Bích Hồi, Đào Thanh Âm, Ngô Công Hoàn, Phạm Viết Vượng.

         Cũng năm đó (1967-1970) do nhu cầu đào tạo của Khoa, một số sinh viên tốt nghiệp các khoa khác được chuyển về Khoa giảng dạy môn học cơ bản: Trần Thị Loan, Vũ Thị Hợi (Khoa Sinh vật), Vũ Kim Thanh ( Khoa Ngữ văn), Nguyễn Thị Phương (Khoa Toán), Phạm Thị Phượng, Lương Tại Cường (Tổ Ngoại ngữ) vv…

        Trong suốt thời gian 1968-1974, do nhu cầu giảng dạy Tâm lí học và Giáo dục học cho sinh viên của Trường ĐHSP Hà Nội II, tổ Tâm lí – Giáo dục học của Trường hàng năm đều tiếp nhận sinh viên tốt nghiệp các khoa cơ bản làm cán bộ giảng dạy, sau khi được bồi dưỡng hai môn học Tâm lí học và Giáo dục học: Hoàng Kim Lục, Đỗ Ngọc Đạt ( Phòng Tại chức chuyển sang), Trịnh Dân, Phạm Thị Bình, Phạm Thị Bích Hạnh, Nguyễn Văn Khiêm, Trần Tiến, Trần Thị Kiếm, Nguyễn Thị Minh ( Khoa Hóa), Hoàng Mộng Hải (Khoa Lí), Trần Văn Chín (Khoa Toán), Nguyễn Hữu Tằng, Phạm Thanh Liêm, Nguyễn Như Canh (sau này xin chuyển về địa phương).

          Từ năm 1973 Khoa bắt đầu thực hiện trương trình đào tạo hệ chính quy 04 năm, với đối tượng tuyển sinh là học sinh tốt nghiệp Phổ thông cấp III. Kết thúc những ngày sơ tán, cùng với các khoa khác, Khoa Tâm lí – Giáo dục học tiếp tục công việc giảng dạy nghiên cứu Khoa học tại Trường Đại học Sư phạm, Cầu Giấy, Từ Liêm, Hà Nội.

          Cùng với nhiệm vụ chính là giảng dạy và nghiên cứu khoa học, từ năm 1965-1975 Khoa đã cử nhiều cán bộ đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài, chủ yếu ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu khác. Nhiều thầy cô đã trở thành các nhà khoa học đầu ngành sau này. Trong số đó nhiều thầy cô đã trở lại Khoa công tác và trở thành cán bộ khoa học chủ chốt của Khoa: Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Ngọc Bảo, Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Văn Thàng, Bùi Văn Huệ, Hà Nhật Thăng, Nguyễn Văn Thạc vv…

 

III. KHOA TÂM LÍ – GIÁO DỤC HỌC TỪ 1975 ĐẾN NAY

          Hòa cùng với không khí giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, bắt đầu từ năm học 1974-1975, Khoa Tâm lí – Giáo dục học đã đào tạo cả đối tượng là học sinh tốt nghiệp Phổ thông trung học. Năm học 1975-1976, Nhà nước và Bộ Giáo dục đã quyết định sát nhập hai trường Đại học Sư phạm Xã hội (ĐHSP HN I) và Đại học Sư phạm Tự nhiên (ĐHSP HN II) thành Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I. Thành lập Trường Đại học Sư phạm Hà Nội II đóng trên đất Thị trấn Xuân Hòa, Vĩnh Phúc. Cùng năm đó theo quyết định của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I thống nhất hai đơn vị: Khoa Tâm lí – Giáo dục học của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I cũ và tổ Tâm lí – Giáo dục học của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội II cũ thành Khoa Tâm lí – Giáo dục học thuộc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I. Thầy Trương Anh Tuấn chuyển vào miền Nam công tác. Thầy Đặng Vũ Hoạt được cử làm Chủ nhiệm khoa và thầy Bùi Ngọc Hồ làm Bí thư Đảng ủy Khoa.

       Năm học 1976-1977, Khoa đào tạo giáo viên cấp II của Trường Đại học Sư phạm II giải thể, Khoa lại được bổ sung thêm một số cán bộ giảng dạy Tâm lí học: Nguyễn Thị Kim Quý, Vũ Thị Tuyết Liên.

        Để kiện toàn tổ chức, nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo ngày càng phát triển của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I trong thời kì mới, Khoa Tâm lí – Giáo dục học đã được cơ cấu lại và hình thành nhiều bộ môn mới. Từ năm học 1975-1976 Khoa có 07 tổ Bộ môn: Tâm lí học đại cương – thầy Trần Trọng thủy làm Tổ trưởng; Tâm lí học nhân cách – cô Nguyễn Thị Ánh Tuyết làm Tổ trưởng; Tâm lí học lứa tuổi và Sư phạm – thầy Lê Văn Hồng làm Tổ trưởng; Lí luận chung về giáo dục (tổng luận) – thầy Nguyễn Sinh Huy làm Tổ trưởng; Lí luận giáo dục – thầy Bùi Ngọc Hồ làm Tổ trưởng; Lí luận dạy học – thầy Lê Khánh Bằng làm Tổ trưởng; Lịch sử giáo dục học – thầy Vũ Văn Thái làm Tổ trưởng (Năm học 1975-1976 Khoa có thành lập tổ Tật học, nhưng tổ này chỉ hoạt động một thời gian, sau đó cả tổ được chuyển về Viện Nghiên cứu Khoa học Giáo dục. Năm 1996, theo quyết định của Trường, Khoa lại thành lập tổ Giáo dục đặc biệt).

       Do nhu cầu phát triển của Khoa, từ năm học 1976-1980, nhiều sinh viên tốt nghiệp của Khoa và các khoa cơ bản đã được giữ lại, bồi dưỡng và trở thành cán bộ giảng dạy của Khoa: Nguyễn Văn Lê, Bạch Văn Thọ, Lê Thị Hồng An, Bùi Minh Hiền (Khoa Lịch sử), Nguyễn Thị Mùi, Đỗ Thị Hạnh Phúc (Khoa Hóa học), Dương Diệu Hoa (Khoa Kĩ thuật Công nghiệp), Trần Thị Bích Trà (Khoa Sinh vật), Trần Quốc Thành (Khoa Địa lí )… Đồng thời một số sinh viên chuyên Khoa Tâm lí – Giáo dục học sau khi tốt nghiệp cũng được giữ lại: Nguyễn Văn Huynh, Nguyễn Xuân Thức, Phan Trọng Ngọ, Nguyễn Văn Tân, Võ Thị Ánh Tuyết… Đây là giai đoạn lực lượng cán bộ của Khoa hùng hậu nhất về số lượng và trình độ chuyên môn.

        Từ năm 1977 Khoa bắt đầu đào tạo Sau đại học (14 Khóa từ 1977-1990) và từ năm 1991 đến nay đã và đang đào tạo các khóa Thạc sĩ với 04 chuyên ngành: Tâm lí học, Giáo dục học, Quản lí giáo dục và Giáo dục dân số. Từ luận án PTS đầu tiên về Tâm lí học được bảo vệ thành công năm 1978, cho đến nay đã có hơn 143 luận án được bảo vệ thành công tại Khoa, 40 đồng chí NCS đang triển khai nghiên cứu, trong số đó có nhiều NCS là cán bộ giảng dạy của Khoa. Thời kì từ năm 1975 đến nay, Khoa Tâm lí – Giáo dục học luôn chuyển biến mạnh về mục tiêu đào tạo, về nội dung, chương trình đào tạo, về phương hướng nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng lực lượng cán bộ. 

     Trong những năm học vừ qua, tập thể cán bộ Khoa đã đóng góp nhiều công sức của mình trong việc xây dựng hệ thống chương trình tài liệu, sách giáo khoa về TLH, GDH giảng dạy cho sinh viên các Trường ĐHSP, CĐSP và Trung học Sư phạm trong phạm vi cả nước. Khoa cũng đã tích cực tham gia vào việc bồi dưỡng thường xuyên cho đội ngũ giáo viên các Trường phổ thông, các trường Trung học Chuyên nghiệp và Dạy nghề.

       Từ năm học 1994-1995, cùng với Trường ĐHSP Hà Nội, Khoa Tâm lí – Giáo dục học là thành viên của Đại học Quốc gia Hà Nội. Năm học 1999-2000, Trường ĐHSP Hà Nội tách ra khỏi Đại học Quốc gia Hà Nội để xây dựng thành Trường ĐHSP Hà Nội – trường Đại học Sư phạm trọng điểm của cả nước. Khoa Tâm lí – Giáo dục học trở thành 01 trong 12 Khoa của Trường.

       Năm học 1999-2000 đến nay, một bộ phận của Khoa là Tổ Giáo dục đặc biệt tách ra thành Khoa Giáo dục đặc biệt, do TS Nguyễn Hoàng Yến, nguyên Tổ trưởng làm Chủ nhiệm khoa và đến nay do TS. Nguyễn Xuân Hải Làm chủ nhiệm khoa.

       Từ tháng 05/2005, Khoa Quản lí giáo dục ra đời, do TS. Bùi Minh Hiền, Trưởng bộ môn Lí luận và Lịch sử giáo dục (Bộ môn lý luận giáo dục) làm Chủ nhiệm khoa. Mặc dù khoa TL- GDH phải tách một số cán bộ thành một khoa riêng: khoa Quản lý giáo dục; nhưng trong khoảng thời gian nay khoa vẫn mở thêm những hướng phát triển mới như thành lập thêm bộ môn Tâm lý học ứng dụng, bộ môn Giáo dục hướng nghiệp. Phải khẳng định rằng: chỉ trong một khoảng thời gian ngắn khoa đã liên kết với trường Đại học St. Johns Hoa Kì tổ chức hội thảo khoa học xây dựng chương trình khung mã ngành Tâm lý trị liệu và đến nay đã mở 2 khoá đào tạo sinh viên trình độ cử nhân. Bên cạnh đó khoa tham gia xây dựng chương trình và bồi dưỡng chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên không chuyên sư phạm, bồi dưỡng chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm cho giảng viên không chuyên sư phạm ở các trường Cao đẳng, Đại học.

 

 

 

        Đến nay, sau 45 năm xây dựng và trưởng thành, từ một tổ bộ môn chỉ có 03 cán bộ, đến nay Khoa đã góp phần xây dựng, thành lập các khoa mới: Khoa Giáo dục tiểu học, Khoa Giáo dục mầm non, khoa Giáo dục đặc biệt, khoa Quản lý giáo dục và đến nay có 42 cán bộ, nhân viên; trong đó có 4 PGS, 16 TS, 21 ThS và 05 cán bộ có trình độ Đại học. Với chủ trương chung của trường, nhiều cán bộ trẻ của khoa hiện nay đang tiếp tục học tập nghiên cứu sinh nâng cao trình độ ở trong nước hoặc nước ngoài. Đến thời điểm này có 4 cán bộ đang nghiên cứu sinh nước ngoài (ở Hoa kì, Liên bang Đức, Liên bang Nga và Trung Quốc), 06 chủân bị đi nghiên cứu sinh nước ngoài và 04 nghiên cứu sinh trong nước.  Khoa hiện có 07 bộ môn: Tâm lí học đại cương; Tâm lí học lứa tuổi và Sư phạm; Lí luận dạy học; Lí luận giáo dục; Phương pháp giảng dạy; Tâm lý học ứng dụng; Giáo dục hướng nghiệp và ngoài giờ lên lớp và 01 tổ Văn phòng.

        Nhìn lại quá trình xây dựng và phát triển của Khoa Tâm lí – Giáo dục học, chúng ta vô cùng phấn khởi và tự hào về sự trưởng thành và không ngừng lớn mạnh. Từ những hạt giống đầu tiên trong những ngày đầu, cho đến hôm nay vườn cây Tâm lí – Giáo dục học đang xum xuê, xanh tươi giữa đất trời. Có người trồng cây nào mà không vui khi thấy vườn cây của mình đâm chồi, nẩy lộc, đâm hoa kết trái. Có nhà giáo dục nào mà không tự hào khi thấy công việc của mình đem lại thành công tốt đẹp. Và mỗi chúng ta đều nghĩ suy về từng chặng đường đã trải qua để từ đó tiếp nối truyền thống các thế hệ thầy cô đi trước, tiếp tục xây dựng khối đoàn kết toàn khoa, tập trung phát huy thế mạnh trong đào đạo, nghiên cứu khoa học trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá. Hơn lúc nào hết, bước sang thiên niên kỉ mới, với thời cơ mới, mỗi thành viên trong khoa quyết tâm hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị mà xã hội đang yêu cầu; đứng vững trên mảnh đất hiện thực hôm nay, góp phần thực hiện đổi mới giáo dục của ngành và cho sự phồn vinh của đất nước; trong đó có sự ấm no, hạnh phúc và sự tiến bộ của mỗi người.

 

1. DANH SÁCH BÍ THƯ ĐẢNG ỦY KHOA TL – GDH TỪ 1965 - 2014

1. PGS.TS. Trương Anh Tuấn (Bí thư Liên chi Đảng)

2. Nguyễn Thanh Phương (Bí thư Liên chi Đảng)

3. PGS. Bùi Ngọc Hồ (Bí thư Đảng bộ)

4. PGS. Nguyễn Sinh Huy

5. PGS.TS. Nguyễn Văn Thàng

6. PGS.TS. Đào Thanh Âm

7. TS. Lê Văn Huỳnh

8. GS.TS. Bùi Văn Huệ

9. PGS.TS. Ngô Công Hoàn

10. PGS.TS. Nguyễn Văn Thạc

11. GVC. Trần Quang Cấn

12. PGS.TS. Hà Thị Đức

13. PGS.TS. Nguyễn Văn Lê

14. TS. Nguyễn Thị Mùi

15. TS. Lê Tràng Định

16. PGS.TS. Trần Quốc Thành

17. PGS.TS. Nguyễn Đức Sơn

2. DANH SÁCH CÁC NHÀ GIÁO NHÂN DÂN, NHÀ GIÁO ƯU TÚ CỦA KHOA TÂM LÍ – GIÁO DỤC HỌC

1- Nhà giáo nhân dân: GS. Nguyễn Lân

2- Nhà giáo ưu tú: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Bảo

3- Nhà giáo ưu tú: PGS. TS. Nguyễn Văn Thàng

4- Nhà giáo ưu tú: PGS. TS. Nguyễn Văn Thạc

5- Nhà giáo ưu tú: PGS. TS. Ngô Hiệu


Source: 
04-04-2014
Tags